Chùa Thiên Mụ là một đại danh lam và cổ nhất ở Huế. Cho đến nay, chùa đã có một lịch sử dài hơn 400 năm kể từ khi Nguyễn Hoàng tái thiết chùa vào năm Tân Sửu (1601).
Vị trí đắc địa
Chùa tọa lạc trên một ngọn đồi cao, phía tả ngạn sông Hương, cách thành phố Huế độ 6km. Từ xa xưa ngọn đồi này đã mang tên là “đồi Hà Khê”. Phía Tây ngọn đồi, sông Hương từ ngã Long Hồ chảy về, tạo thành một cái vịnh rất rộng, cho nên cảnh trí đồi Hà Khê là nơi “sơn hồi thủy tụ” rất đẹp. Đồi lại như cái đầu rồng ngoảnh nhìn về nơi núi mẹ phát tích, đây là thế đất “long bàn hổ cứ” (rồng cuộn cọp ngồi), một thế đất cực kỳ quan trọng cho việc các chúa Nguyễn định đô ở Phú Xuân, tức Kinh thành Huế sau này.
Cuốn sách xưa nhất có nói đến chùa Thiên Mụ là cuốn "Ô châu cận lục" của Dương Văn An (1513-?): “Chùa Thiên Mụ ở phía Nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông; tưởng như gang tấc bên trên, vượt hẳn ba nghìn thế giới. Những khách đăng lâm thưởng lãm, bất giác lòng lành phát động, niềm tục sạch không, đúng là một cảnh Tiên Phật vậy”.
Như thế, có lẽ từ khi Đại Việt tiếp nhận hai châu Ô, Rí của Champa giao lại trong lễ cưới Huyền Trân Công Chúa (1306) thì tại vùng đồi này đã có một nơi thờ tự của người Champa để lại. Nhưng về sau, tại phế tích đền tháp này đã có một ngôi chùa do người Đại Việt dựng nên. Năm 1558, Nguyễn Hoàng nhận tước Đoan Quốc Công và lãnh trách nhiệm vào làm Trấn thủ cõi Thuận Hóa, kể từ Ái Tử, Quảng Trị cho đến núi Hải Vân.
Năm 1601, ông cho dựng lại chùa Thiên Mụ để làm cảnh tụ linh khí, củng cố long mạch cho vùng Thuận Hóa. Vào năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho trùng tu chùa khang trang hơn. Ba mươi năm sau, tức là vào năm 1695, Thạch Liêm Hòa thượng Thích Đại Sán đã tả cảnh chùa Thiên Mụ trong Hải Ngoại ký sự như sau: “Đêm mười lăm trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa, chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo”.
Thăng trầm theo thời gian
Tuy nhiên, phải đợi đến năm Vĩnh Thịnh thứ 10 đời vua Dụ Tông nhà Lê, nhằm năm Giáp Ngọ (1714), chùa Thiên Mụ mới được kiến thiết thành một đại thắng cảnh, đại tùng lâm. Việc trùng kiến chùa Thiên Mụ năm này trong sách "Phủ biên tạp lục", Lê Quý Đôn ghi: “Năm thứ 10, Giáp Ngọ sửa lại chùa Thiên Mụ rất là rộng đẹp, qua một năm mới xong, chúa tự làm bài minh khắc chuông, chúa tự xưng là Đại Việt Quốc Vương, ở vườn Côn Gia trong chùa một tháng, sai người đem vàng sang phủ Chiết Giang, Trung Quốc mua Kinh Đại tạng, cùng Luật và Luận hơn nghìn bộ đem về để ở trong chùa”.
Sách "Đại Nam nhất thống chí" nói về chùa Thiên Mụ có câu: “Hiển Tông năm Canh Dần thứ 19 (1710) đúc chuông lớn, năm Giáp Ngọ (1714) sửa chữa lại chùa. Năm Ất Mùi (1715) chúa thượng thân làm bài văn bia khắc vào đá dựng trước chùa. Bờ sông thì dựng đài câu, chúa thượng thân đến chơi xem phong cảnh”.
Theo lời văn trong tấm bia còn tại chùa, người ta biết rõ nguyên nhân sửa chữa lại chùa Thiên Mụ và cách thức để triển khai công trình trùng kiến: “Quyên góp ngọc ngà, chẳng tiếc vàng bạc, hễ luật nước đã truyền, công việc xây dựng lâu đài cung điện do quân lính đảm trách chẳng sợ lao nhọc, đến cùng lực có toàn dân giúp sức, chẳng sợ năm tháng kéo dài”.
Mọi người đã tận công tận lực đóng góp vào việc xây dựng, thế mà thời gian cũng đã kéo dài đến một năm tròn mới xong. Cũng chính trong lời văn bia này, Minh Vương đã miêu tả nhà cửa điện đài, cảnh chùa Thiên Mụ sau khi làm xong: “Tất cả đều sáng chói rực rỡ, khiến cho người xem phải kinh ngạc sợ hãi, thật là một tòa quang minh trong thế giới toàn sắc vàng rực vậy”.
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765), ông đã truy tôn bảy đời chúa trước lên Vương hiệu và chạm thần vị đem thờ ở chùa Thiên Mụ như là một nơi từ đường của dòng họ ông. Sau này, chúa Nguyễn Phúc Thuần thất trận và bỏ chạy khỏi Kinh thành, chùa Thiên Mụ không có người trú trì, săn sóc, đã trở thành nơi hoang liêu: “Bài vị bảy đời họ Nguyễn vẫn còn tàn tạ, lạnh lẽo nằm lại nơi đây; nghìn gian nhà chư Tăng ở thì ngói đã sụt mất hết một nửa”.
Giai đoạn suy tàn của chùa Thiên Mụ có thể kể từ năm 1727 cho đến năm 1815 mới được vua Gia Long cho tái thiết. Đến đời vua Minh Mạng (1820 - 1840) tuy không có kiến thiết gì thêm, song trong 20 năm trị vì, vua Minh Mạng đã cho mở năm lần đại trai đàn ở ngôi quốc tự có cảnh trí đẹp vào hàng nhất xứ Huế. Có lần, như kỳ đại trai đàn năm 1835, vua đã ngự giá lên dự lễ, và làm nhiều thơ sai quan đại thần đem dán ở điện Phật.
Vua Thiệu Trị là ông vua ở trên ngai vàng ngắn nhất, chỉ có 7 năm (1841 - 1847), nhưng nhà vua đã kiến thiết chùa Thiên Mụ thành một cảnh đẹp có giá trị kiến trúc và văn hóa Phật giáo nổi tiếng. Nhất là việc xây ngôi Vô Lượng Tháp ở phần ngoài của chùa. Ngôi tháp này nguyên mang tên là Từ Nhân Tháp, nhưng chỉ một năm sau thì vua hạ sắc chỉ đổi tên là Phước Duyên Bảo Tháp.
Lần trùng tu vào năm Thiệu Trị thứ tư (1844), đại loại như sau: Trước hết xây bốn trụ rất lớn và xây hai lần tầng cấp. Lên sân ngoài của chùa thì hai bên có hai bi đình. Hai bia này đều dựng vào năm Thiệu Trị thứ sáu (1846) ở chính giữa là Hương Nguyện Đỉnh, một nhà vuông tám mái kiến trúc vừa mỹ thuật vừa lạ mắt; trên chóp có đặt Pháp luân. Sau ngôi Hương Nguyện Đỉnh là ngôi Phước Duyên Bảo Tháp hình bát giác, cao bảy tầng (khoảng 21 mét); bên phía Tây có lầu để chuông lớn của chúa Nguyễn, bên phía Đông có lầu để bia lớn trên rùa đá rất đẹp. Ba mặt tiền, tả, hữu phần sân trước Nghi môn này đều có xây bao lơn gạch hoa.
Chùa Thiên Mụ có hai phần rõ ràng: Phía sân ngoài cho đến cửa Tam quan có những kiến trúc nặng về phần nề, to bậm, mang tính cách vững chãi, miên trường; phần trong có những kiến trúc thiên về phần mộc, mang tính cách nhẹ nhàng, thanh nhã. Tiền đường và điện Đại Hùng được cấu tạo theo kiểu nhà “trùng thiềm điệp ốc”, một lối kiến trúc riêng của xứ Huế.
Tại chùa Thiên Mụ còn nhiều di sản văn hóa Phật giáo từ đời chúa Nguyễn như: Quả chuông lớn nhất nước Việt Nam, bia đá lớn với nhiều mô típ thuộc mỹ thuật Huế dựng trên lưng rùa đá rất lớn chạm trổ mỹ thuật, bốn chữ “Linh Thứu Cao Phong” thủ bút của chúa Nguyễn Phúc Chu, Cổ đại hồng chung chú tạo vào năm 1815 có tiếng ngân rất đặc biệt gọi là “tiếng chuông Thiên Mụ”...
Nằm ở tỉnh Tứ Xuyên phía Tây Nam Trung Quốc, ngôi làng Yangsi là nơi khiến các nhà khoa học bối rối trong nhiều thập kỷ do 40% dân số là người lùn.
Học bổng Chắp cánh ước mơ không chỉ là nguồn động viên về vật chất, mà còn là món quà lớn về tinh thần giúp con đường học tập của các em bớt đi sự gập ghềnh.
Anh Phúc, 44 tuổi, khó chịu ở ngực, đau âm ỉ 15 phút rồi hết, bác sĩ chẩn đoán nhồi máu cơ tim không có triệu chứng điển hình, tắc mạch máu chính nuôi tim.
Sáng 17/5, Tỉnh Đoàn, Hội LHTN Việt Nam tỉnh Sóc Trăng tổ chức khánh thành hai công trình cầu thanh niên giao thông nông thôn tại xã Thạnh Thới An, huyện Trần Đề.
Sau vụ nổ phòng trọ tại Bình Dương, một thanh niên 26 tuổi được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM) trong tình trạng bỏng nặng đến 80%, khả năng cứu sống rất nhỏ.
Ngày quyết định bán nhà ở trung tâm chuyển sang căn hộ ở ngoại thành vì không thể tiếp tục sống chung với ô nhiễm không khí, anh Minh Đức 'tiếc ngẩn ngơ'.
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết bão số 3 và mưa lũ sau bão khiến 21 người thiệt mạng. Sa Pa vừa xảy ra một vụ sạt lở đất vùi lấp 4 hộ gia đình.
TP Hồ Chí Minh – Ngày 4.8, Lễ hội sông nước TP Hồ Chí Minh lần thứ nhất năm 2023 chính thức khai mạc. Lễ hội nhằm quảng bá hình...
Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943 đã chỉ ra ba nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam là Dân tộc hóa, Đại chúng hóa, Khoa...